1. Chú sang xông nhà cho Bác
Vào
các dịp lễ tết, vẫn có một số anh chị em “ăn cơm tập thể, nằm giường cá nhân” ở
lại trực cơ quan.
Mồng
một tết âm lịch (năm 1956), nhường anh em khác về quê, tôi ở lại bảo vệ cơ
quan.
Khoảng
9 giờ sáng, khi mọi người đã rộn ràng đi chúc tết, thì Bác tới.
Thấy
nhà vắng lặng, chỉ có mỗi mình tôi ngồi ở bàn, Bác mừng tuổi tôi một chiếc bánh
chưng, một gói kẹo, chúc tôi nhân dịp năm mới, rồi Bác hỏi:
-
Mồng một tết chú khai bút cái gì đó?
-
Thưa Bác, cháu đang viết báo cáo tổng kết công tác năm 1955 của đội ạ.
Bác
khen:
-
Các chú thật cần cù, chịu khó, quanh năm
vất vả. Những ngày mưa dầm gió bấc, Bác ngủ trên nhà, còn các chú phải thức
suốt đêm ở dưới vườn. Tết còn phải làm việc.
Bác
nói tiếp:
-
Chú viết báo cáo ngắn thôi. Kết luận là: toàn đội hết lòng bảo vệ Trung ương
Đảng và Chính phủ được an toàn. Không nên nói: bảo vệ Hồ Chủ tịch, vì trong
Trung ương Đảng và Chính phủ là có đủ mọi người rồi.
Bác
nắm tay tôi:
-
Chú sang xông nhà cho Bác đi.
Bác
phân công tôi rửa ấm chén, còn Bác thì lau bàn ghế và cắm hoa để đón các đồng
chí trong Bộ Chính trị sang chúc tết.
Tết
năm ấy, tôi lại là người vui nhất.
2. Nước nóng, nước nguội
Buổi
đầu kháng chiến chống Pháp, có một đồng chí cán bộ trung đoàn thường hay quát
mắng, đôi khi còn bợp tai chiến sỹ. Đồng chí này đã từng là giao thông, bảo vệ
Bác đi ra nước ngoài trước Cách mạng Tháng Tám.
Được
tin nhân dân “dư luận” về đồng chí này, một hôm, Bác cho gọi lên Việt Bắc. Bác
dặn trạm đón tiếp khu ATK, dù có đến sớm, cũng giữa trưa mới cho đồng chí ấy
vào gặp Bác.
Trời
mùa hè, nắng chang chang, đi bộ đúng ngọ “đồng chí Trung đoàn” vã cả mồ hôi,
người như bốc lửa.
Đến
nơi, Bác đã chờ sẵn. Trên bàn đã đặt hai cốc nước, một cốc nước sôi có ý chừng
vừa như mới rót, bốc hơi nghi ngút, còn cốc kia là nước lạnh.
Sau
khi chào hỏi xong, Bác chỉ vào cốc nước nóng nói:
-
Chú uống đi.
Đồng chí cán bộ kêu lên:
-
Trời! Nắng thế này mà Bác lại cho nước nóng làm sao cháu uống được.
Bác
mỉm cười:
-
À ra thế. Thế chú thích uống nước nguội, mát không?
-
Dạ có ạ.
Bác
nghiêm nét mặt nói:
-
Nước nóng, cả chú và tôi đều không uống được. Khi chú nóng, cả chiến sĩ của chú
và cả tôi cũng không tiếp thu được. Hoà nhã, điềm đạm cũng như cốc nước nguội
dễ uống, dễ tiếp thu hơn.
Hiểu
ý Bác giáo dục, đồng chí cán bộ nhận lỗi, hứa sẽ sửa chữa…
3. Chú ngã có đau
không?
Vào
đầu năm 1954, tiết trời đã sang xuân, nhưng ở Việt Bắc vẫn còn rét. Gió bấc
thổi mạnh, mưa phùn lâm râm gây nên cái lạnh buốt, Bác vẫn làm việc rất khuya.
Bác khoác chiếc áo bông đã cũ, miệng ngậm điếu thuốc lá thỉnh thoảng lại hồng
lên, tiếng máy chữ lách tách, lách tách đều đều…
Trời
lạnh, nhưng được đứng gác bên Bác, tôi thấy lòng mình như được sưởi ấm lên. Tôi
nhẹ bước chân đi vòng quanh lán. Một lần vừa đi, vừa nghĩ, tôi bị thụt chân xuống
một cái hố tránh máy bay. Tôi đang tìm cách để lên khỏi hố, chợt nghe có tiếng
bước chân đi về phía mình. Có tiếng hỏi:
-
Chú nào ngã đấy?
Chưa
kịp nhận ra ai, thì tôi đã thấy hai tay Bác luồn vào hai nách, chòm râu của Bác
chạm vào má tôi. Tôi cố trấn tĩnh lại để nói một lời thì giật mình khi thấy Bác
không khoác áo bông, Bác đi tất, một chân có guốc, một chân không, nước mắt tôi
trào ra. Vừa kéo, Bác vừa hỏi:
-
Chú ngã có đau không?
Bác
sờ khắp người tôi, nắn chân, nắn tay tôi. Rồi Bác nói:
-
Chú ngã thế đau lắm. Chú cứ ngồi xuống đây bóp chân cho đỡ đau. Ngồi xuống!
Ngồi xuống!
Tôi
bàng hoàng cả người, không tin ở tai mình nữa. Có thật là Bác nói như vậy
không! Bác ơi! Bác thương chúng cháu quá!
Tôi
trả lời Bác:
-
Thưa Bác, cháu không việc gì ạ. Rồi tôi cố gắng bước đi để Bác yên lòng.
Bác
cười hiền hậu và căn dặn: “Bất cứ làm việc gì chú cũng phải cẩn thận”. Rồi Bác
quay vào.
Tôi
đứng nhìn theo Bác cho đến lúc lại nghe tiếng máy chữ của Bác kêu lên lách
tách, đều đều trên nhà sàn giữa đêm Việt Bắc.
4. Tấm lòng của Bác Hồ với chiến sỹ
Đối
với chiến sĩ là những người hy sinh nhiều nhất cho dân tộc, Bác Hồ thường dành
cho anh em sự chăm lo, săn sóc ân tình, chu đáo nhất.
Mùa
đông, thương anh em chiến sĩ rét mướt ở rừng núi hay bưng biền, Bác đem tấm áo
lụa của mình được đồng bào tặng, bán đấu giá để lấy tiền mua áo ấm gửi cho các
chiến sĩ.
Bác
thường nói: “Chiến sĩ còn đói khổ, tôi ăn ngon sao được!”. “Chiến sĩ còn rách rưới, mình mặc thế này
cũng là đầy đủ lắm rồi!”.
Mùa
hè năm ấy (1967), trời Hà Nội rất nóng. Sức khỏe Bác Hồ đã kém, thần kinh tuổi
già cũng suy nhược, dễ bị to¸t mồ hôi, ướt đầm, có ngày phải thay mấy lần quần
áo, có khi hong tại chỗ, rồi lại thay ngay. Bác không cho dùng máy điều hòa
nhiệt độ. Bác bảo: mùi nó hôi lắm, Bác không chịu được ! ( Bác không dùng nên
nói vậy thôi, chứ máy đã có nút xả thơm).
Thấy
trời oi bức quá, Bác nói với đồng chí Vũ Kỳ:
-
Nắng nóng thế này, các chú bộ đội trực phòng không trên nóc hội trường Ba Đình
thì chịu sao được ? Các chú ấy có đủ nước uống
không? Chú thử lên tìm hiểu xem thế nào, về cho Bác biết.
Đồng
chí Vũ Kỳ lên, được biết trên đó có một tổ súng máy 14 ly 5. Ụ cát sơ sài, nếu
địch bắn vào thì chỉ có hy sinh, rất nguy hiểm.
Trời
nắng chói, đứng một lúc mà hoa cả mắt. Đồng chí Vũ Kỳ hỏi:
-
Các đồng chí có nước ngọt uống không?
-
Nước chè thường còn chưa có, lấy đâu ra nước ngọt!
Đồng
chí Vũ Kỳ về nói lại với Bác, Bác gọi điện ngay cho đồng chí Văn Tiến Dũng:
-
Sao các chú không lo đủ nước uống cho các chiến sĩ trực phòng không? Nghe nói ụ
súng trên nóc hội trường Ba Đình rất sơ sài, chú phải lo sửa ngay để đảm bảo an
toàn cho chiến sĩ trong chiến đấu!
Sau
đó Bác bảo đồng chí Vũ Kỳ đi lấy sổ tiết kiệm của Bác, xem tiền tiết kiệm của
Bác còn bao nhiêu.
Tại
sao Bác có tiền tiết kiệm? Lương Bác cao nhất nước, nhưng hàng tháng cũng chỉ
đủ tiêu. Mọi chi phí cho sinh hoạt của Bác, từ cái chổi lông gà, đều ghi vào
lương cả.
Tiền
tiết kiệm của Bác là do các báo trả nhuận bút cho Bác. Bác viết báo nhiều, có
năm hàng trăm bài. Các báo gửi đến bao nhiêu, văn phòng đều gửi vào sổ tiết
kiệm của Bác. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác cũng đã có tiền tiết
kiệm. Đến dịp tết Nguyên đán, Bác lại đem chia cho cán bộ các cơ quan chung
quanh Bác, mua lợn để đón xuân.
Đồng
chí Vũ Kỳ xem sổ và báo cáo:
-
Thưa Bác, còn lại tất cả hơn 25.000 đồng (lúc đó là một món tiền rất lớn, tương
đương với khoảng 60 lạng vàng).
Bác
bảo:
-
Chú chuyển ngay số tiền đó cho Bộ Tổng tham mưu và nói: đó là quà của Bác tặng
để mua nước ngọt cho anh em chiến sĩ trực phòng không uống, không phải chỉ cho
những chiến sĩ ở Ba Đình, mà cho tất cả các chiến sĩ đang trực chiến trên mâm
pháo ở khắp miền Bắc. Nếu số tiền đó không đủ thì yêu cầu địa phương nào có bộ
đội phòng không trực chiến góp sức vào cùng lo!
Về
sau, Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân báo cáo lại cho Văn phòng Phủ Chủ tịch
biết: số tiền của Bác đủ mua nước uống cho bộ đội phòng không, không quân được
một tuần!
5. Để Bác quạt
Năm ấy, Bác
Hồ đến thăm trại điều dưỡng thương binh ở Hà Nội.
Tin Bác đến nhanh chóng lan ra
khắp trại. Anh chị em thương binh ai cũng muốn len vào gần Bác, quên cả nạng
phải dùng để đi.
Đang lúc Bác thăm hỏi sức khoẻ
thương binh bỗng một đồng chí hỏng mắt nhờ một y tá dẫn đến xin đứng bên Bác.
Đồng chí Ninh đi với Bác định bước lại đỡ đồng chí ấy, nhưng Bác đã đi tới, giơ
hai tay ra đón. Đồng chí thương binh ôm chầm lấy Bác nghẹn ngào "Bác
ơi"! Bác lặng đi giây lát rồi mới tiếp tục câu chuyện thăm hỏi.
Bác đến từng giường anh chị em
đau nặng hỏi thăm bệnh tật đã đỡ chưa, mỗi bữa ăn được bao nhiêu bát cơm.
Hôm ấy, trời nóng bức, Bác lấy
cái quạt giấy vẫn dùng, quạt cho các thương binh. Có người định làm thay, Bác
nói:
- Để bác quạt.
Hôm ấy, lúc ra về Bác không vui.
Và có lẽ vì thế mà khi cơ quan
định lắp máy điều hoà nhiệt độ nơi Bác ở, Bác bảo đem ra cho các đồng chí
thương binh
6. Bác Hồ với chiến sĩ người dân tộc
Bác
của chúng ta yêu quý mọi chiến sĩ. Đối với các chiến sĩ gái, chiến sĩ người dân
tộc, Bác còn chăm sóc hơn vì đây là những người làm cách mạng khó khăn hơn
chiến sĩ trai, chiến sĩ người Kinh nhiều.
Anh
hùng La Văn Cầu, dân tộc Tày mãi mãi không quên bữa cơm của Bác "đãi"
với rau, thịt gà… những "sản phẩm" do chính Bác nuôi, trồng. Bác hỏi thăm mẹ Cầu, gửi quà cho
mẹ, dặn cán bộ tạo mọi điều kiện để Cầu về thăm mẹ, giúp đỡ gia đình.
Nhiều
chiến sĩ người dân tộc đã lấy họ Hồ cho mình
như Hồ Vai, Hồ Can Lịch, Hồ Văn Bột...
Mùa
thu năm 1964, chị Choáng Kring Thêm - chiến sĩ người dân tộc Cà Tu, tham gia
đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được ra miền Bắc, gặp Bác
Hồ. Chị Thêm kể:
"Đoàn
chúng tôi vừa bước xuống xe thì đã thấy Bác
đứng chờ ngay ngoài sân.
Bác ôm
hôn thắm thiết các thành viên trong đoàn. Chúng tôi theo Bác đến dãy bàn tiếp khách kê ngay ngoài vườn đầy
hoa và nắng. Thấy tôi mặc bộ quần áo dân tộc, Bác nói:
- Cháu
đúng là con gái dân tộc Cà Tu giữ được tính chất của dân tộc mình.
Chị
Ngân, chị Cao gặp Bác, mừng quá khóc lên. Bác dịu dàng bảo:
- Các
cháu gái đừng khóc. Gặp Bác phải vui chứ. Hai cháu hãy kể cho Bác nghe bà con ta ở tiền
tuyến đánh Mỹ như thế nào?
Tôi thưa:
- Thưa Bác, cháu thương, cháu nhớ Bác. Tất cả đồng bào dân tộc miền Nam
đều thương nhớ Bác.
Sau đó tôi kể Bác nghe một số chuyện chiến đấu của mẹ Giớn, anh Bên, em
Thơ...
Bác nói:
- Cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam ta là toàn dân, toàn diện.
Trẻ, già, gái, trai, Kinh, Cà Tu, Cà Tang và đồng bào các dân tộc khác đều sản
xuất giỏi, chiến đấu giỏi".
Tôi hiểu đó là Bác dành tình thương mênh mông của Bác cho tất cả chúng
ta.
7. Tấm lòng của Bác với thương
binh, liệt sĩ
Ngày 10 tháng 3 năm 1946 báo Cứu quốc đăng
thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ. Trong thư có đoạn Người viết:
"Tôi xin kính cẩn cúi chào vong linh các anh chị em đã bỏ thân vì nước và
các đồng bào đã hy sinh trong cuộc đấu tranh cho nước nhà. Sự hy sinh đó không
phải là uổng".
Tiếp sau đó, trong Thư gửi đồng bào
miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại
viết: "Tôi nghiêng mình trước anh
hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam đã vì Tổ quốc mà hy sinh anh
dũng".
Hơn nửa tháng sau khi đi Pháp về, ngày 7 tháng 11 năm 1946, Người đã đến dự lễ "Mùa đông binh
sĩ" do Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam tổ chức tại Nhà hát lớn thành phố
Hà Nội, vận động đồng bào ở hậu phương đóng góp tiền của để may áo trấn thủ cho
chiến sĩ, thương binh, bệnh binh.
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp đã thu hút nhiều thanh niên nam
nữ tham gia quân đội. Một số chiến sĩ đã hy sinh anh dũng, một số nữa là thương
binh, bệnh binh, đời sống gặp nhiều khó khăn, mặc dầu anh chị em tình nguyện
chịu đựng không kêu ca, phàn nàn.
Trước tình hình ấy, tháng 6 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Chính
phủ chọn một ngày nào đó trong năm làm "Ngày thương binh" để đồng bào
ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến thương binh. Có lẽ - trừ những ngày kỷ
niệm quốc tế - "Ngày thương
binh" là ngày kỷ niệm trong nước đầu tiên được tổ chức.
Hưởng ứng và đáp lại tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một hội nghị
trù bị đã khai mạc tại xã Phú Minh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên gồm có một
số đại biểu ở Trung ương, khu và tỉnh. Hội
nghị nhất trí lấy ngày 27 tháng 7 hàng năm là ngày thương binh liệt sĩ
và tổ chức ngay lần đầu trong năm 1947.
Báo Vệ quốc quân số 11, ra ngày 27 tháng 7 năm 1947 đã đăng
thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thường trực Ban tổ chức " Ngày thương
binh toàn quốc " Đầu thư Người viết :" Đang khi Tổ quốc lâm nguy,
giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà
thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp. Cha mẹ, anh em, vợ con, ao vườn, làng mạc ta bị nguy
ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù? Đó là những chiến
sĩ mà nay một số đã thành ra thương binh".
Chủ tịch Hồ Chí Minh giải
thích:"thương binh là người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo
vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng
chí đã chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải
giúp đỡ những người con anh dũng ấy ".
Cuối thư, Người vận động đồng bào nhường cơm sẻ áo, giúp đỡ thương
binh. Bản thân Người đã xung phong góp chiếc áo lụa, một tháng lương và tiền ăn
một bữa của Người và của tất cả các nhân viên của Phủ Chủ tịch, tổng cộng là
một ngàn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127 đồng) để tặng thương binh.
Năm sau, ngày 27 tháng 7 năm 1948, trong một thư dài đầy tình thương
yêu, Bác nói: " Nạn ngoại xâm như trận lụt to đe dọa tràn ngập cả non sông
Tổ quốc, đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố mẹ, vợ con, dân
ta. Trong cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta quyết đem
xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững để ngăn cản nạn
ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào".
Người xót xa viết: " Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc
và đồng bào sống. Ngày nay, bố mẹ họ mất một người con yêu quý. Vợ trẻ trở nên
bà goá. Con dại trở nên mồ côi. Trên bàn thờ gia đình thêm một linh bài tử sĩ.
Tay chân tàn phế của thương binh sẽ không mọc lại được. Và những tử sĩ sẽ không
thể tái sinh".
8. Tấm lòng của Bác
Trong những ngày ra thăm miền Bắc, đoàn anh hùng, dũng sĩ miền Nam được
Bác chăm lo, ân cần như cha đối với con. Bác bảo tôi ( vì tôi được phụ trách
theo dõi sức khoẻ và đời sống của đoàn):
- Cô Bi [1] phải chăm sóc các cô, các chú
ấy thật tốt, đừng để các cô các chú ấy ốm.
Một bữa, đồng chí Huỳnh Văn Đảnh bị sốt rét, Bác biết được, gọi tôi lên
hỏi:
- Chú Đảnh bị sốt ra sao?
Tôi báo cáo tình hình của đồng chí Đảnh cho Bác. Bác nhắc:
- Cô phải cho các cô, các chú ấy ăn uống đầy đủ, chú ý các món ăn của
địa phương để các cô, các chú ấy ăn được nhiều, sức khỏe mới tốt.
Một hôm khác, Bác chỉ vào Trần Dưỡng và hỏi tôi:
- Cô Bi, tại sao chú Dưỡng hơi gầy?
Bác nghe anh hùng Vai kể chuyện quê hương miền núi nghèo khổ của mình.
Bác cảm động nói:
- Thống nhất Bác vô Nam, thế nào cũng về thăm quê hương cháu Vai.
Trong những ngày sống bên Bác, tôi càng thấm thía hơn tình cảm của Bác
đối với đồng bào miền Nam. Chị Tạ Thị Kiều nói với tôi:
- Càng được gần Bác, càng thấy Bác thương yêu dân miền Nam ta quá chị
à.
Nói xong, hai chị em lại khóc vì sung sướng và cảm động trước tấm lòng
của Bác Hồ.
9. Bác Hồ tắm cho trẻ ở Việt Bắc
Hơn một năm xa Tổ quốc, trải qua ngót ba chục nhà tù của Tưởng Giới
Thạch gần khắp Quảng Tây, Bác Hồ trở về Pắc Bó cuối năm 1944.
Nhìn thấy việc giữ vệ sinh nước
ăn và nơi ở chưa được dân ở đây chú ý, Bác bảo chúng tôi cùng Bác bắt
tay dọn dẹp. Một buổi sáng Bác bảo các cháu xếp hàng đi ra phía khe nước.
Người tự tay cởi quần áo cho các cháu bé, lần lượt tắm rửa, kỳ cọ cho từng cháu. Chúng vừa tắm,
vừa đùa, bắn cả nước vào mặt Bác.
Trong số bọn trẻ được Bác tắm cho hôm
đó có cháu Thân (con trai tôi) chốc đầu, tóc dính bết. Tắm gội xong, Bác
còn làm thuốc dịt cho. Thuốc xót, thấy cháu kêu, Bác Hồ dỗ dành ngọt ngào:
-
Không sao, chỉ một lát là hết xót ngay
thôi cháu ạ.
Rồi
Bác nói với đám thanh niên chúng tôi đứng quanh đó:
- Các
cô, các chú, vợ chồng còn trẻ phải giữ
gìn quanh năm sạch sẽ cho con cái, bệnh ghẻ lây nhanh lắm đấy, thật khổ cho
cháu tôi.
Chúng
tôi im lặng, cảm động. Trông thấy mấy cháu mặc quần áo bẩn và rách, Bác không
vui:
Các
cháu này con cô chú nào đây. Lấy áo sạch thay cho trẻ, còn mang quần áo bẩn đi
giặt, chỗ nào rách thì khâu lại.
Bà cố
tôi gần một trăm tuổi, nghe vậy xuýt xoa thán phục, nói:
- Ông
già này là con người quý giá lắm đấy.
Rồi bà
cố bảo bố tôi bưng một bát cháo có đánh trứng gà lại mời Bác Hồ. Bác tỏ vẻ
không bằng lòng:
- Các
đồng chí làm cách mạng, tôi cũng làm cách mạng, tại sao tôi được ăn đặc biệt
hơn các đồng chí?
Và
Người đứng dậy bê bát cháo trứng gà mời cố tôi ăn và nói:
- Đây
mới là người cần được đặc biệt bồi dưỡng. Bà đã sống gần trăm tuổi rồi, khổ cực
nhiều nhiều, cần ăn cho khoẻ để sống đến ngày đất nước độc lập, vui hưởng thái
bình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét