71. CÂU HÁT VÍ DẶM
Chiều ngày 18-5-1969,
các diễn viên Đoàn văn công Quân khu 4 vào Phủ Chủ tịch biểu diễn để mừng thọ
Bác 79 tuổi. Sau một số tiết mục, đến lượt chị Mai Tư hát dặm đò đưa: “Nước
sông Lam biết khi mô cho cạn cũng như tinh thần cách mạng của dân ta...”. Bác hỏi
mấy đồng chí ngồi xung quanh: “Có hay không các chú?”. “Thưa Bác hay ạ!”. Bác
hỏi chị Mai Tư: “Trong ta chừ còn dệt vải nữa không?”. “ Dạ thưa Bác, có ạ!”. “
Rứa cháu có biết hát phường vải không?”. “ Dạ thưa Bác, có ạ!”. Bác bảo Mai Tư
hát một câu mà các cụ ngày xưa hay hát, Mai Tư thưa với Bác: “Dạ, chúng cháu
hát điệu phường vải nhưng không biết lời cũ ạ!”. Bác bảo: “Thì cháu lấy câu ni
để hát nhé: “Khuyên ai chớ lấy học trò”. Cháu tiếp đi...”. “Dạ, thưa Bác, có
phải dài lưng tốn vải ăn no lại nằm không ạ!”. “Giờ cháu tiếp câu nữa đi”. Mai
Tư lúng túng không biết, Bác nhắc: “Lưng dài có võng đòn cong; áo dài đã có lụa
hồng vua ban”. Mai Tư hát câu Bác vừa nhắc theo điệu hát ví Nghệ An. Đến lượt
Minh Huệ, chị đứng dậy thưa: “Thưa Bác, bây giờ cháu xin hát điệu ru em, dân ca
miền Trung theo lời cũ ạ! Rồi chị cất giọng “A ờ ơ... Ru em em ngủ cho muồi”,
Bác sửa lại: “Ru tam tam théc cho muồi”. Minh Huệ hát tiếp: “Mua vôi chợ Quán,
chợ Cầu; Mua cau chợ Sải, mua trầu chợ Dinh”. Bác cười và nói: “Mua cau Cam Phổ
chứ không phải chợ Sải”. Thế mới biết Bác Hồ đã từng đi năm châu bốn biển mấy
chục năm trời mà vẫn không quên từng tên làng, ngõ xóm, từng câu hát ví dặm của
quê nhà.
72. CHAI MẬT ONG DO
BÁC TẶNG
Thường tối thứ bảy,
Bác ra xem phim ngắn khoảng gần một tiếng tại Phủ Chủ tịch, Thủ tướng Phạm Văn
Đồng cùng xem với Bác. Buồng chiếu phim có anh em ở đơn vị bộ đội bảo vệ, anh
em bảo vệ và phục vụ Bác. Thỉnh thoảng anh Vũ Kỳ lại tổ chức buổi hát hoặc ngâm
thơ phục vụ Bác.
Tối ngày 31-5-1969 tại
Phủ Chủ tịch, Bác và đông đủ các lãnh đạo Đảng, Nhà nước tới dự buổi ca múa
nhạc nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi. Buổi tối hôm đó đã được ghi lại trên những
thước phim, ảnh Bác ngồi giữa các cháu như ông tiên ngồi giữa bày cháu nhỏ. Lúc
ra về, dọc đường Bác hỏi đồng chí Vũ Kỳ: Dưới hàng ghế có cụ nào ngồi đấy. Đồng
chí Vũ Kỳ trả lời: Dạ, đó là cụ thân sinh của bác sĩ Mẫn. Bác nói:
- Sao không giới thiệu
cho mình để mình bắt tay.
Vài ngày sau đồng bào
Tây Bắc gửi về biếu Bác một chai mật ong, Bác bảo đồng chí Vũ Kỳ: Chai mật ong
này để biếu ông cụ chú Mẫn.
Tôi (Lê Văn Mẫn) đưa
về và kể cho bố tôi, bố tôi cảm động chảy nước mắt và giữ gìn chai mật ong cho
tới lúc chết (hai năm sau đó)…
73. BÁC RẤT YÊU QUÝ
CÁC CHÁU MIỀN NAM
Nắng tháng sáu rực rỡ.
Những ngày tháng sáu năm 1969, Hà Nội từng bừng đón tin vui: Chính phủ cách
mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam thành lập. Phái đoàn Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam chúng tôi được nâng lên thành Đoàn đại diện đặc
biệt của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tại Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà. Trụ sở của Đoàn những ngày này tấp nập đại biểu trong nước và
nước ngoài đến chúc mừng.
Sáng 12 tháng sáu,
chúng tôi vô cùng xúc động và phấn khởi được đón Bác Hồ đến chúc mừng bước
trưởng thành của cách mạng Việt Nam.
Chúng tôi quây quần
bên Bác, người Cha già yêu thương vô hạn. Bác ân cần hỏi thăm sức khoẻ anh chị
em trong đoàn chúng tôi, hỏi han hoàn cảnh công tác, gia đình mỗi cán bộ, nhân
viên, không thiếu một ai.
Bác nhờ Đoàn chuyển
lời thăm hỏi thân ái của Người đến các vị trong Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hoà miền Nam Việt Nam và trong Hội đồng cố vấn Chính phủ. Bác cũng nhờ
Đoàn chúng tôi chuyển lời khen ngợi đồng bào và bộ đội, các cụ phụ lão, chị em
phụ nữ, các cháu thanh niên và nhi đồng miền Nam đã luôn luôn đoàn kết chặt
chẽ, chiến đấu anh dũng, thắng lợi vẻ vang.
Bác lại đem kẹo chia
cho các cháu và tất cả chúng tôi như lần đầu tiên Bác đến thăm Phái đoàn.
Một kỷ niệm thiêng
liêng, sâu sắc nữa lại đến với tôi (Nguyễn Khánh Phương). Ngày 14 tháng sáu,
anh Nguyễn Phú Soại và tôi nhận được tin Bác cho biết muốn gặp chúng tôi. Tôi
vừa mừng, vừa lo.
Đúng bảy giờ, chúng
tôi vào nhà Bác. Bác tiếp chúng tôi ngay tại nhà như những người thân trong gia
đình. Tôi ngồi cạnh Bác và quạt cho Bác như con gái về thăm ba.
Bác thân mật nói: Hôm
nay, Bác muốn gặp cô và chú để hỏi về tình hình các cháu học sinh miền Nam, Bác
được báo cáo có một số cháu tiến bộ chậm.
Chúng tôi báo cáo với
Bác về những cố gắng của Bộ Giáo dục, của thầy giáo, cô giáo các trường nhận
dạy con em miền Nam và những cố gắng của Phái đoàn của chúng tôi về công tác
này.
Không những Bác biết
rõ tình hình ăn học của các cháu mà còn nêu cho chúng tôi tên những cháu ngoan
và một số cháu chưa ngoan.
Bác dặn chúng tôi, đại
ý: nếu để tình hình này kéo dài thì ba má và gia đình các cháu đang chiến đấu ở
miền Nam sẽ kém yên tâm. Bác nhắc nhở chúng tôi là những người thay mặt cho cha
mẹ các cháu phải đặc biệt quan tâm chăm sóc, giáo dục các cháu ngày càng tiến
bộ. Bác động viên chúng tôi phải cố gắng và quyết tâm. Bác nêu rõ trách nhiệm
phải nuôi dạy cho các cháu tiến bộ nhiều vì bản chất các cháu rất tốt, các cháu
đều là mầm non của đất nước. Việc dạy dỗ, nuôi dưỡng đòi hỏi phải có lòng thật
sự thương yêu các cháu…
Được ngồi bên Bác,
nghe những lời chỉ bảo của Bác, tôi càng nhớ đồng bào miền Nam da diết.
Khi ra về, qua vườn
nhà Bác, tôi nhìn thấy cây vú sữa đồng bào miền Nam gửi tặng Bác và Bác ngày
ngày tự tay vun xới đã lớn lên, cao quá mái nhà đơn sơ của Bác. Tôi nhìn cây vú
sữa mà nghĩ đến người Ông trồng cây cho con cháu ăn quả đời đời. Bác đã kêu gọi
nhân dân miền Bắc trồng cây cho đất nước xanh tươi và Bác cũng không quên nhắc
mọi người: “Chúng ta phải trồng cây cho đồng bào miền Nam nữa”. Bác nhắc:
“Trồng cây nào tốt cây ấy”. Có những loại cây, Bác tự tay trồng và chăm bón cho
đến khi ra hoa kết quả, rồi Bác lấy giống gửi tặng các địa phương để “nhân
lên”. Bác dặn các cụ già và các tỉnh chú ý “nhân giống cho miền Nam, trồng
nhiều cây miền Nam trong vườn kết nghĩa”. Bác luôn nghĩ đến việc ươm hạt giống
cách mạng cho miền Nam. Miền Nam trân trọng những hạt mầm của Bác.
Tình cảm của Bác đối
với đồng bào miền Nam sâu rộng hơn biển Đông. Tình yêu thương của Người đối với
thanh niên, thiếu niên, nhi đồng Thành đồng mênh mông bát ngát. Giữa tháng
7-1969, trong buổi gặp mặt thân mật với chị phóng viên Cuba, Mácta Rôhát, Bác
đã nói: “Ở miền Nam, những thanh niên dưới 25 tuổi không biết được thế nào là
hai chữ “tự do”. Có thể nói rằng ở miền Nam, mỗi người, mỗi gia đình có một nỗi
đau khổ riêng, và nếu mỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình gộp lại thì
đó là nỗi đau khổ của tôi”.
74. CHIẾC RỄ ĐA TRÒN
Một buổi sớm, như
thường lệ Bác tập thể dục rồi đi dạo trong vườn. Đến một gốc đa, Bác chợt thấy
một chiếc rễ đa nhỏ và dài ngoằn ngoèo trên mặt cỏ. Đêm qua trời mưa bão chắc
nó bị đánh rớt xuống. Bác đứng tần ngần một lát rồi quay lại bảo đồng chí phục
vụ đi theo:
- Đừng vứt nó đi. Chú
đem cuộn nó lại và giâm cho nó mọc tiếp.
Đồng chí phục vụ vâng
lời, xới đám đất nhỏ và chôn chân nó xuống, nhưng Bác bảo:
- Không, chú nên làm
thế này.
Bác vừa nói vừa cuộn
chiếc rễ thành một vòng tròn. Đồng chí phục vụ làm theo sự hướng dẫn của Bác:
cuộn tròn chiếc rễ lại và buộc cho nó tựa vào hai cái cọc…
Đồng chí phục vụ thắc
mắc hỏi Bác:
- Thưa Bác, làm thế
này để làm gì ạ?
Bác khẽ cười, gật gật
đầu:
- Rồi chú khắc biết.
Ít lâu sau, chiếc rễ
đa đã bám rễ và phát triển rất tốt. Và có một sự kỳ thú là đoàn thiếu nhi nào
vào thăm vườn Bác, không ai bảo ai, bạn nào cũng thích chơi chui qua chui lại
chiếc rễ đa mọc thành hình tròn xinh xẻo kia.
Lúc bấy giờ ai nấy mới
chợt nhớ đến lời của Bác: “Rồi chú khắc biết”. Thì ra Bác của chúng ta chẳng
những rất yêu các cháu thiếu nhi mà cũng rất hiểu thiếu nhi.
75. MIỀN NAM Ở
TRONG TRÁI TIM TÔI
Suốt đời mình, Hồ Chủ
tịch kiên quyết đấu tranh cho độc lập tự do của dân tộc, thống nhất của Tổ
quốc. Đối với miền Nam, tình cảm của Bác vô cùng thắm thiết. Bác nói: “Miền Nam
ở trong trái tim tôi”, “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu
khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”. Chưa giải phóng được miền
Nam, Bác tự coi là nhiệm vụ làm chưa tròn, cho nên Người đã nói với Quốc hội
khi Quốc hội có ý định trao huân chương Sao Vàng cho Người: “Chờ đến ngày miền
Nam hoàn toàn giải phóng, Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miền Nam trao cho tôi
huân chương cao quý đó”.
Những năm miền Nam
chiến đấu chống Mỹ ác liệt, Bác đã có ý định vào miền Nam “để thăm đồng chí,
đồng bào” và yêu cầu tổ chức để Bác đi. Bác nêu vấn đề một cách rất kiên quyết.
Thấy Bác tuổi đã cao, sức khoẻ không còn được như trước, các đồng chí Bộ Chính
trị đề nghị xin cố gắng cùng toàn dân đánh Mỹ mau thắng rồi mời Bác vào. Bác
nói: “Tôi muốn vào là vào lúc này, chứ thắng rồi mới vào thì nói làm gì?”
Lâu lâu Bác lại nhắc
lại vấn đề và hỏi việc chuẩn bị đến đâu rồi. Thấy Bác rất quyết tâm, các đồng
chí phụ trách đành phải báo cáo đường đi rất khó khăn, vất vả, Bác đi không
được. Bác nói : “Nếu không có đường nào khác thì tổ chức cho tôi đi bộ. Các chú
đi được thì tôi đi được. Đi mỗi ngày một ít. Chưa chắc thua các chú đâu”.
Trong những năm cuối,
tuy yếu mệt nhưng Bác vẫn tập đi bộ, tập leo dốc và nhiều khi leo những dốc khá
cao. Các đồng chí đều can ngăn, nhưng Bác cứ leo. Bác muốn xem sức mình hiện
nay thế nào và vẫn quyết rèn luyện để thực hiện ý định “vào miền Nam với đồng
bào, đồng chí”.
Từ năm 1968 trở đi,
Bác yếu nhiều hơn. Bác yêu cầu: hễ có đồng chí miền Nam nào ra thì phải cho Bác
biết và đưa vào gặp Bác. Vì vậy, rất nhiều cán bộ, chiến sĩ miền Nam ra Bắc đã
được vào thăm Bác, đặc biệt là các chị và các cháu. Mỗi lần gặp, Bác đều hỏi
tình hình rất tỉ mỉ và Bác rất vui…
76. BỎ THUỐC LÁ
Hút thuốc lá là thú
vui duy nhất của Bác như Bác thường nói. Nhưng từ khi bị bệnh, theo lời khuyên
của Hội đồng thầy thuốc, Bác có kế hoạch quyết tâm bỏ dần. Bác nói:
- Bác hút thuốc từ lúc
còn trẻ nay đã thành thói quen, bây giờ bỏ thì tốt nhưng không dễ, các chú phải
giúp Bác bỏ tật xấu này.
Rồi Bác tự đề ra
chương trình bỏ thuốc dần dần. Lúc đầu là giảm số lượng điếu hút trong ngày.
Khi thèm hút thuốc Bác làm một việc gì đó để thu hút sự chú ý, tập trung. Tuổi
đã già phải làm như vậy thật quá vất vả. Tập một thói quen, bỏ một thói quen
không dễ chút nào. Phải có một nghị lực phi thường mới làm được. Bác bảo đồng
chí giúp việc để cho Bác một vỏ lọ Pênixilin ở nơi làm việc và phòng nghỉ. Hút
chừng nửa điếu Bác dụi đi để vào lọ đó. Sau hút lại nửa điếu để dành. Anh em
can bảo thuốc lá hút dở không có lợi, Bác bảo: “Nhưng hút để có cữ”. Với cách
làm đó, Bác đã giảm từ cả bao xuống còn ba, bốn điếu một ngày. Cứ như vậy Bác
hút thưa dần.
Đầu tháng 3-1968, nhân
khi bị cảm ho nhẹ, Bác tự quyết định bỏ hẳn. Mấy ngày sau, trong một tuần lễ
anh em vẫn để gói thuốc trên bàn làm việc của Bác, nhưng Bác không dùng.
Một tháng sau, khi
tiếp đồng chí Vũ Quang, lúc ấy là Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động
Việt Nam, Bác nói: Bác bỏ thuốc lá rồi, chú về vận động thanh niên đừng hút
thuốc lá. Sau này Bác có bài thơ Vô đề:
“Thuốc kiêng rượu cữ
đã ba năm,
Không bệnh là tiên
sướng tuyệt trần.
Mừng thấy miền Nam
luôn thắng lớn,
Một năm là cả bốn mùa
Xuân”
77. BÀI HỌC VỀ SỰ TIẾT
KIỆM
Trước kia, Thông tấn
xã Việt Nam hàng ngày đều đưa bản tin lên cho Bác xem. Khi in một mặt, Bác phê
bình là lãng phí giấy. Sau đấy Thông tấn xã in hai mặt bằng rônêô, nhoè nhoẹt
khó đọc hơn nhưng Bác vẫn đọc. Sang năm 1969, sức khoẻ Bác yếu và mắt giảm thị
lực, Thông tấn xã lại gửi bản tin in một mặt để Bác đọc cho tiện. Khi xem xong,
những tin cần thiết Bác giữ lại, còn Người chuyển bản tin cho Văn phòng Phủ Chủ
tịch cắt làm phong bì tiết kiệm hoặc dùng làm giấy viết. Ngày 10-5-1969, Bác đã
viết lại toàn bộ đoạn mở đầu bản Di chúc lịch sử bằng mực xanh vào mặt sau tờ
tin Tham khảo đặc biệt ra ngày 3-5-1969. Từ giữa năm 1969, sức khoẻ Bác yếu đi
nhiều nên Bộ Chính trị đề nghị: Khi bàn những việc quan trọng của Đảng, Nhà
nước thì Bác mới chủ trì, còn những việc khác thì cứ bàn rồi báo cáo lại sau,
Bác cũng đồng ý như vậy. Tháng 7, Bộ Chính trị họp ra nghị quyết về việc tổ
chức 4 ngày lễ lớn của năm: ngày thành lập Đảng, ngày Quốc khánh, ngày sinh
Lênin và ngày sinh của Bác. Sau khi báo Nhân Dân đăng tin nghị quyết này, Bác
đọc xong liền cho mời mọi người đến để góp ý kiến: “Bác chỉ đồng ý 3/4 nghị
quyết. Bác không đồng ý đưa ngày 19-5 là ngày kỷ niệm lớn trong năm sau. Hiện
nay, các cháu thanh thiếu niên đã sắp bước vào năm học mới, giấy mực, tiền bạc
dùng để tuyên truyền về ngày sinh nhật của Bác thì các chú nên dành để in sách
giáo khoa và mua dụng cụ học tập cho các cháu, khỏi lãng phí”.
Đầu năm 1969, một chị
cán bộ trong Nam ra thăm miền Bắc. Như bất cứ đồng bào miền Nam nào khác, khi
tới thủ đô, chị mong ngày mong đêm được sớm thấy Bác Hồ. Một hôm, thật hết sức
bất ngờ, chị được Trung ương gọi vào Phủ Chủ tịch gặp Bác!
Cùng tiếp khách với
Bác hôm ấy có cả Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Gặp Bác, điều đầu tiên chị thưa với
Bác là:
- Chúng cháu ở miền
Nam, vâng theo lời Bác, không nề hy sinh gian khổ đánh Mỹ đến một trăm năm cũng
không sợ. Chỉ sợ một điều là Bác trăm tuổi.
Chị đã nói ra cái điều
mà mọi người hằng nghĩ, nhưng không ai dám và muốn nhắc đến. Một cái gì thoáng
qua nhanh, rất nhanh, trên vầng trán, đôi mắt, đôi môi và chòm râu bạc của Bác.
Bác quay lại hỏi Thủ tướng Phạm Văn Đồng:
- Năm nay Bác bảy mươi
mấy rồi, chú?
- Thưa Bác, năm nay
Bác bảy mươi chín.
Bác mỉm cười, mắt ánh
lên hóm hỉnh:
- Thì thì còn đến hai
mươi mốt năm nữa Bác mới trăm tuổi. Bác kêu gọi các cô, các chú đánh Mỹ năm,
mười năm, hai mươi năm chứ có bao giờ Bác nói hai mươi mốt năm đâu. Nếu hai
mươi năm nữa mà ta thắng Mỹ thì Bác cũng còn một năm để vào thăm các cụ, các
cô, các chú, các cháu miền Nam…
Thấy Bác nói vui như
vậy, chị cán bộ miền Nam thấy vững lòng. Chị thầm tin rằng, rồi đây đánh Mỹ
xong, thế nào Bác cũng sẽ vô thăm đồng bào miền Nam, để đồng bào miền Nam thoả
lòng mong ước.
Trước ngày mồng
2-9-1969, Nha khí tượng phát đi một thông báo khô khan như thường lệ: “Cơn bão
số 3…”
Tối hôm mồng một,
không thấy Bác dự lễ mừng Quốc khánh, người dân thủ đô cảm thấy lo lắng. Chưa
có thông báo chính thức thế nào về sức khỏe của Bác, nhưng nhân dân cũng biết
Bác mệt nhiều.
Không biết tin ở đâu
phát ra mà ở thủ đô từng nhóm người tụ tập đều truyền cho nhau nghe tin Bác
mệt, và kể lại cho nhau nghe câu chuyện sau đây:
“Trên giường bệnh, Bác
hỏi:
- Trong Nam mấy hôm nay
đánh thế nào?
- Thưa Bác, anh em
trong ấy đang đánh tốt lắm.
- Quốc khánh năm nay
có đốt pháo hoa cho đồng bào vui không?”…
Chị Mađơlen Riphô -
nhà báo Pháp đã từng sang Việt Nam nhiều lần và cũng nhiều lần may mắn được gặp
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kể một chuyện nhỏ về Bác Hồ như sau:
Trước đây, có lần Bác
Hồ nói với tôi rằng: “Con gái ạ, nếu con muốn làm Bác vui lòng thì hôm nào đấy
hãy gửi cho Bác những đĩa hát mà ngày xưa Môrixơ Sơvaliê thường hát hồi Bác ở
Pari, lúc con còn chưa ra đời ấy”.
Tôi đã tìm kiếm được
những đĩa hát ấy, khi người ta cho phát hành lại tất cả những gì Sơvaliê biểu
diễn trước đây, nhân dịp ông 80 tuổi.
Tôi lưỡng lự khi gửi
món quà khác thường này… Giả sử Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quên rồi thì sao? Liệu
Người có cho vật gửi đi này là thất lễ không?
Tôi hỏi ý kiến một
trong những đại biểu của nước Việt Nam đi dự hội nghị Pari, người ấy trả lời:
“Chị cũng biết rồi đấy, Bác không bao giờ quên một điều gì cả đâu. Hãy cứ gửi
cho Người những bài hát này đi. Chúng sẽ làm cho Bác nhớ lại thời thanh niên
của mình và nhớ tới những người dân lao động Pari mà Bác vô cùng quý mến”.
Thế là tuần vừa rồi,
hai ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, tôi nhận được một bức thư viết
từ ba tuần trước của Têô Rôngcô, phóng viên báo chúng tôi tại Hà Nội. Bức thư
có đoạn: “Bác Hồ đã nhận được số đĩa hát. Người nghe các đĩa ấy một cách thích
thú. Người rất hài lòng”.
Có lẽ khó mà diễn tả
được nỗi xúc động của Mađơlen Riphô khi biết Bác Hồ đã vui lòng đến thế nào khi
nhận được món quà nhỏ của chị gửi từ nước Pháp xa xôi.
Theo ditichhochiminhphuchutich.gov.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét