1. Câu chuyện về ba chiếc ba lô
Trong
những ngày sống ở Việt Bắc, mỗi lần Bác đi công tác, có hai đồng chí đi cùng.
Vì sợ Bác mệt, nên hai đồng chí định
mang hộ ba lô cho Bác, nhưng Bác nói:
- Đi
đường rừng, leo núi ai mà chẳng mệt, tập trung đồ vật cho một người mang đi thì
người đó càng chóng mệt. Cứ phân ra mỗi người mang một ít.
Khi mọi
thứ đã được phân ra cho vào 3 ba-lô rồi, Bác còn hỏi thêm:
- Các
chú đã chia đều rồi chứ?
Hai đồng
chí trả lời:
- Thưa
Bác, rồi ạ.
Ba người
lên đường, qua một chặng, mọi người dừng chân, Bác đến chỗ đồng chí bên cạnh,
xách chiếc ba lô lên.
- Tại
sao ba lô của chú nặng mà Bác lại nhẹ?
Sau đó,
Bác mở cả 3 chiếc ba lô ra xem thì thấy ba lô của Bác nhẹ nhất, chỉ có chăn,
màn. Bác không đồng ý và nói:
- Chỉ có
lao động thật sự mới đem lại hạnh phúc cho con người.
Hai đồng
chí kia lại phải san đều các thứ vào 3 chiếc ba lô.
2. Không ai được vào đây
Sách
“Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 10, do Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm
1996, trang 334, có đoạn:
“Ngày
27 tháng 4 năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghe hai đồng chí: Lê Đức Anh và Chu
Huy Mân báo cáo công việc, sau đó Người mời hai đồng chí ở lại ăn cơm với
Người”.
Sáng
hôm ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi bỏ phiếu bầu Hội đồng nhân dân cấp huyện, xã…
Người bỏ phiếu tại hòm phiếu số 6, đơn vị 1, tiểu khu 1, khu phố Ba Đình, Hà
Nội, đặt tại Nhà thuyền Hồ Tây.
Khi
Bác Hồ đến, trong Nhà thuyền đã có nhiều cử tri đang bỏ phiếu. Tổ bầu cử thấy
Bác đến, ra hiệu để đồng bào tạm dừng và tạo “điều kiện” để Bác bỏ phiếu trước.
Biết ý, Bác nói “sòng phẳng”:
-
Ai đến trước, viết trước, Bác đến sau, Bác chờ. Bác chờ cho đến hàng mình, mới
nhận phiếu và vào “buồng” phiếu.
Nhà
báo Ma Cường chợt nghĩ thật là “hạnh phúc một đời của người làm báo”, “cơ hội
ngàn năm có một” và vội giơ máy lên bấm, rất nhanh, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy
tay che phiếu lại, nói với Ma Cường:
-
Không ai được vào đây. Đây là phòng viết phiếu kín của cử tri. Phải bảo đảm tự
do và bí mật cho công dân.
Nhà
báo buông máy, nhưng vẫn thấy hạnh phúc.
Theo
lời kể của các đồng chí ở gần Bác, trước khi đi bầu cử Bác không cho ai “gợi ý”
cả, Bác nói:
-
Ấy, đừng có “lãnh đạo” Bác nhé. Bác không biết đảng uỷ hướng dẫn danh sách để
ai, xoá ai đâu nhé. Đưa lý lịch của những người ứng cử đây để Bác xem. Có chú
nào dự buổi ứng cử viên trình bày ý kiến với cử tri, nói lại để Bác cân nhắc,
Bác tự bầu.
3. Bát chè sẻ đôi
Đồng
chí liên lạc đi công văn 10 giờ đêm mới đến. Bác gọi mang ra một bát, một thìa
con. Rồi Bác đem bát chè đậu đen, đường phèn, mà anh em phục vụ vừa mang lên,
xẻ một nửa cho đồng chí liên lạc.
-
Cháu ăn đi!
Thấy
đồng chí liên lạc ngần ngại, lại có tiếng đằng hắng bên ngoài, Bác giục:
-
Ăn đi, Bác cùng ăn...
Cám
ơn Bác, đồng chí liên lạc ra về. Ra khỏi nhà sàn, xuống sân, đồng chí cấp dưỡng
bấm vào vai anh lính thông tin:
-
Cậu chán quá. Cả ngày Bác có bát chè để bồi dưỡng làm đêm mà cậu lại ăn mất một
nửa.
-
Khổ quá, anh ơi! Em có sung sướng gì đâu. Thương Bác, em vừa ăn vừa rớt nước
mắt, nhưng không ăn lại sợ Bác không vui, mà ăn thì biết cái chắc là các anh
mắng mỏ rồi…
4. Một bữa ăn tối của Bác
Tháng
4 năm 1946, giữa lúc đất nước đang bề bộn công việc, thì Bác vẫn dành nh÷ng th× giờ quý b¸u về Ninh B×nh dàn xếp nh÷ng vấn
đề đối nội, đối ngoại có lợi cho quốc gia. Vào khoảng ngày 10 đến 12, Bác đi
qua thị xã Ninh Bình để xuống Phát Diệm. Lúc đó tôi là quyền Chủ tịch Uỷ ban
hành chính tỉnh. Một dịp may hiếm có được đón Bác về tỉnh, nghĩ vậy, tôi mời
đồng chí Uỷ viên thư ký kiêm Phó Chủ tịch và Ch¸nh V¨n phòng đến hội ý. Hai
đồng chí cũng cùng chung một ý nghĩ như tôi.
Tôi
phân công đồng chí Phó Chủ tịch huy động nhân dân ra tập trung đón Bác, đồng
chí Chánh Văn phòng chuẩn bị cơm mời Bác, còn tôi phụ trách việc dọn dẹp văn phòng,
chuẩn bị chỗ nghỉ và chỗ ngủ cho Bác qua đêm.
Quả
như tôi dự đoán, sáu giờ chiều thì xe Bác về đến phía nam thị xã Ninh Bình.
Nhân dân đã vẫy cờ, hô khẩu hiệu rồi ùa xuống lòng đường đón Bác. Bác ra khỏi
xe vẫy chào nhân dân. Nhân lúc đó chúng tôi mời Bác vào trụ sở Uỷ ban hành
chính tỉnh.
Trước
sự nhiệt tình của nhân dân thị xã, không nỡ từ chối, Bác đã vào gặp Uỷ ban hành
chính tỉnh Ninh Bình.
Đến
cổng cơ quan, Bác bảo đồng chí lái xe dừng lại rồi xuống đi bộ. Vừa đi Bác vừa
hỏi tình hình đời sống của nhân dân, đặc biệt đồng bào ở vùng công giáo. Chúng
tôi báo cáo với Bác về nh÷ng
khó
khăn trong tỉnh, một số nơi nông dân còn bị đói.
Bác
căn dặn chúng tôi phải chú ý đoàn kết lương giáo, động viên bà con tích cực
tăng gia sản xuất để chống đói, chú ý công tác diệt giặc dốt, mở nhiều lớp bình
dân học vụ vào buổi trưa, buổi tối, vận động bà con đi học.
Chúng
tôi mời Bác nghỉ lại cơ quan cho đỡ mệt rồi dùng bữa tối. Thực ra bữa cơm chúng
tôi chuẩn bị cho Bác không có gì ngoài một con gà giò luộc, nước dấm nấu bí
đao, vì lúc đó kinh phí của Uỷ ban hành chính tỉnh cũng hết sức khó khăn.
Bác
nói:
-
Hàng ngàn đồng bào đang chờ Bác ngoài kia, Bác không thể nghỉ ở đây đÓ ăn cơm được vì 9 giờ
tối Bác đã có việc ở Chủ tịch phủ. Bây giờ các chú giúp Bác: một chú ra tập hợp
đồng bào vào một ngã tư rộng gần đây để Bác ra nói chuyện với đồng bào mươi
phút, một chú ra cửa hàng bánh mua cho
Bác một cặp bánh giò. Còn các chú đi với Bác thì tranh thủ ăn cơm trước. Nói
chuyện xong, Bác ngược Hà Nội ngay cho kịp hẹn. Trong xe Bác sẽ ăn bánh vừa đỡ
tốn kém, vừa tiết kiệm được thời gian cho Bác.
Chúng
tôi vâng lời Bác làm theo.
Nói
chuyện với đồng bào Ninh
B×nh
hôm đó, Bác nhấn mạnh:
-
Đồng bào chú ý đoàn kết lương giáo vì âm mưu của kẻ thù luôn tìm cách chia rẽ
đồng bào lương giáo.
-
Đồng bào tích cực tăng gia sản xuất chống giặc đói, chống giặc dốt.
-
Đồng bào chuẩn bị tinh thần chịu đựng gian khổ để chống giặc ngoại xâm bảo vệ
Tổ quốc.
Kết
thúc, Bác hỏi:
-
Đồng bào có đồng ý thực hiện ba điều tôi nêu ra không?
-
Đồng ý! Đồng ý! Hồ Chủ tịch muôn năm.
Hàng
ngàn nắm tay gân guốc giơ lên hưởng ứng. Tiếng hô và tiếng vỗ tay râm ran.
Bác
vẫy tay chào đồng bào rồi lên xe về Hà Nội. Xe đi được một quãng Bác mới bắt
đầu dùng “bữa ăn tối” của mình.
5. Thời gian quý báu lắm
Sinh
thời, Bác Hồ của chúng ta yêu cái gì nhất, ghét cái gì nhất? Kể cũng hơi khó
trả lời cho thật chính xác, bởi ở ta không có thói quen “tự bạch” và kín đáo, ý
nhị vốn là một đặc điểm của lối ứng xử phương Đông.
Tuy
nhiên, theo dõi qua tác phẩm, hoạt động và sinh hoạt đời thường, điều ta có thể
thấy rõ cái mà Người ghét nhất, “ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm” là các
thói quan liêu, tham nhũng, xa hoa, lãng phí tiền bạc và thời gian của nhân
dân.
Ở
một mức độ khác, thấp hơn, những người có điều kiện tiếp xúc và làm việc với
Bác Hồ, điều thấy rõ nhất là Bác rất khó chịu
khi thấy cán bộ làm việc không đúng giờ.
Năm
1945, mở đầu bài nói chuyện tại lễ tốt nghiệp khoá V Trường huấn luyện cán bộ ViÖt Nam, Người thẳng
thắn góp ý: “Trong giấy mời tới đây nói 8 giờ bắt đầu, bây giờ 8 giờ 10 phút
rồi mà nhiều người chưa đến. Tôi khuyên anh em phải làm việc cho đúng giờ, vì
thời gian quý báu lắm”.
Trong
kháng chiến chống Pháp, một đồng chí cấp tướng đến làm việc với Bác sai hẹn mất
15 phút, tất nhiên là có lý do: mưa to, suối lũ, ngựa không qua được. Bác bảo:
-
Chú làm tướng mà chậm đi mất 15 phút thì bộ đội của chú sẽ hiệp đồng sai đi bao
nhiêu?. Hôm nay chú đã chủ quan, không chuẩn bị đầy đủ các phương án, nên chú
đã không giành được chủ động.
Một
lần khác, Bác và đồng bào phải đợi một đồng chí cán bộ đến để bắt đầu cuộc họp.
Bác hỏi:
-
Chú đến chậm mấy phút?
-
Thưa Bác, chậm mất 10 phút ạ!
-
Chú tính thế không đúng, 10 phút của chú phải nhân với 500 người đợi ở đây.
Bác
quý thời gian của mình bao nhiêu thì cũng quý thời gian của người khác bấy
nhiêu, vì vậy thường không bao giờ để bất cứ ai phải đợi mình.
Năm
1953, Bác quyết định đến thăm lớp chỉnh huấn của anh chị em trí thức, lúc đó
đang bước vào cuộc đấu tranh tư tưởng gay go. Tin vui đến làm náo nức cả lớp
học, mọi người hồi hộp chờ đợi.
Bỗng
chuyển trời đột ngột, mây đen ùn ùn kéo tới, rồi một cơn mưa dồn dập, xối xả,
tối đất, tối trời, hai ba tiếng đồng hồ
không dứt. Ai cũng xuýt xoa, tiếc rẻ: mưa thế này, Bác đến sao được nữa, trời
hại quá.
Giữa
lúc trời đang trút nước, lòng người đang thất vọng, thì từ ngoài hiên lớp học
có tiếng rì rào, rồi bật lên thành tiếng reo át cả tiếng mưa ngàn, suối lũ:
-
Bác đến rồi, anh em ơi! Bác đến rồi!
Trong
chiếc áo mưa ướt sũng nước, quần sắn đến quá đầu gối, đầu đội nón, Bác hiện ra giữa niềm ngạc nhiên, hân hoan và sung sướng
của tất cả mọi người.
Về
sau, anh em được biết: giữa lúc Bác chuẩn bị đến thăm lớp thì trời đổ mưa to.
Các đồng chí làm việc bên cạnh Bác đề nghị Bác cho báo hoãn đến một buổi khác.
Có đồng chí đề nghị tập trung lớp học ở một địa điểm gần nơi ở của Bác...
Nhưng
Bác không đồng ý: “Đã hẹn thì phải đến, đến cho đúng giờ, đợi trời tạnh thì
biết đến khi nào? Thà chỉ một mình Bác và một vài chú nữa chịu ướt còn hơn để
cho cả lớp học phải chờ uổng công!”.
Ba
năm sau, giữa thủ đô Hà Nội đang vào xuân, câu chuyện có thêm một đoạn mới. Vào
dịp tết cổ truyền của dân tộc, hàng trăm đại biểu các tầng lớp nhân dân thủ đô
tập trung tại Uỷ ban Hành chính thành phố để lên chúc tết Bác Hồ. Sắp đến giờ
lên đường, trời bỗng đổ mưa như trút. Giữa lúc mọi người còn đang lúng túng thu
xếp phương tiện cho đoàn đi để Bác khỏi phải chờ lâu thì bỗng xịch, một chiếc
xe đậu trước cửa. Bác Hồ từ trên xe bước xuống, cầm ô đi vào, lần lượt bắt tay,
chúc tết mỗi người, trong nỗi bất ngờ rưng rưng cảm động của các đại biểu.
Thì
ra, thấy trời mưa to, thông cảm với khó khăn của ban tổ chức và không muốn các
đại biểu vì mình mà vất vả, Bác chủ động, tự thân đến tại chỗ chúc tết các đại
biểu trước. Thật đúng là mối hằng tâm của một lãnh tụ suốt đời quên mình, chỉ
nghĩ đến nhân dân, cho đến tận phút lâm chung, vẫn không quên dặn lại: “Sau khi
tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thời giờ
và tiền bạc của nhân dân”.
6. Chú còn trẻ, chú vào hầm trước đi
Một
ngày tháng 7 năm 1967 ở Hà Nội, đồng chí Mai Văn Bộ được Bác Hồ gọi đến mời cơm
tiễn chân trước khi đồng chí lên đường đi Paris nhận nhiệm vụ Tổng đại diện
Chính phủ ta bên cạnh Chính phủ Pháp.
Trong
bữa cơm, Bác kể chuyện về khu Luýc-xăm-bua, Mông-pac-nát, nơi Bác có nhiều kỷ
niệm. Bác nói Bác rất yêu Paris,
Paris đã dạy
cho Người nhiều điều...
Bỗng
tiếng còi báo động rú lên. Một chiến sĩ bảo vệ yêu cầu Bác và các đồng chí khác
xuống hầm. Ít phút sau đã nghe tiếng đạn nổ.
-
Thưa Bác, tác chiến báo cáo chúng nó đánh cầu Long Biên. Mời Bác vào hầm trú
ngay cho.
Bác
quay lại ®ồng chí Bộ, nói:
-
Bác già rồi, chẳng bom đế quốc nào ném đâu. Chú còn trẻ, chú cần vào hầm trú ẩn
trước.
Rồi
Bác đẩy đồng chí Bộ đi trước, sau đó đến đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí cảnh
vệ.
Bác
là người vào hầm trú ẩn sau cùng.
7. Bác có phải làm vua đâu
Có
một số người có ngôi cao, chức cả, sống
trong sự trọng vọng, chiều chuộng của mọi người, thường xuyên được hưởng
sự ưu đãi đặc biệt, lâu dần cũng quen đi mà không hề biết rằng mình đã nhiễm
phải thói đặc quyền, đặc lợi.
Suốt
đời tâm niệm là người công bộc của nhân dân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ, Bác Hồ của chúng ta luôn luôn hoà mình vào cuộc sống chung của đồng bào,
đồng chí, không nhận bất cứ một sự ưu tiên nào người khác dành cho mình.
Kháng
chiến toàn quốc bùng nổ, nhiều nhân sĩ, trí thức cao tuổi theo Bác lên Việt
Bắc, đi kháng chiến, đèo cao, suối sâu, đường bùn lầy, nhiều vị phải nằm cáng.
Anh em phục vụ lo Bác mệt cũng đề nghị Bác lên cáng, Bác gạt đi: Bác còn khoẻ,
còn đi được, các chú có nhiệm vụ đưa Bác đi như thế này là tốt rồi.
Cuối
năm 1961, Bác về thăm xã Vĩnh Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, một xã có
phong trào trồng cây tốt. Tại một ngọn đồi thấp, Bác đứng nói chuyện với nhân
dân trong xã. Trời đã gần trưa, tuy đã sang đông mà nắng còn gay gắt. Nhìn Bác
đứng giữa nắng trưa, ai cũng băn khoăn. Đồng chí chủ tịch huyện cho tìm mượn
được chiếc ô, định giương lên che nắng cho Bác, thì Bác quay lại hỏi:
-
Thế chú có đủ ô che cho tất cả đồng bào không? Thôi, cất đi, Bác có phải là vua
đâu?
Một
lần, trong bữa ăn, đồng chí phục vụ dọn lên cho Bác một đĩa cá anh vũ, một loại
cá sông quý hiếm thường chỉ có ở khúc s«ng Hång ®o¹n Bạch Hạc - Việt Trì.
Nhìn đĩa cá biết ngay là của hiếm, Bác khen và bảo:
-
Cá ngon quá, thế mà chú Tô (tức đồng chí Phạm Văn Đồng) lại đi vắng. Thôi, các
chú để đến chiều đồng chí Tô về cùng thưởng thức.
Miếng
ngon không bao giờ Bác chịu ăn một mình. Chia sẻ ngọt bùi là thế, tưởng chuyện
cũng sẽ qua đi. Nhưng đến bữa sau, trong mâm cơm lại có món cá hôm trước. Nhìn
đĩa cá, Bác hiểu ngay và tỏ ra không bằng lòng.
-
Bác có phải là vua đâu mà phải cung với tiến!
Rồi
Người kiên quyết bắt mang đi không ăn nữa. Như Bác đã từng nói, ở đời ai chẳng
thích ăn ngon, mặc đẹp, nhưng nếu miếng ngon đó lại đánh đổi bằng sự mệt nhọc,
phiền hà của người khác thì Bác đâu có chấp nhận.
Những
anh em công tác trong Phủ Chủ tịch hàng ngày vẫn thường đi lại bằng xe đạp,
thỉnh thoảng có gặp Bác đi bộ. Nhìn thấy Bác, mọi người đều xuống dắt xe chê Bác đi qua rồi mới lên
xe đi tiếp. Thấy vậy, Bác thường khoát tay ra hiệu bảo anh em cứ đi tiếp, không
cần xuống xe. Nhưng ai có thể cho phép mình ngồi trên xe khi Bác đi bộ. Một
lần, Bác gọi đồng chí vừa xuống dắt xe lại gần và bảo:
-
Các chú có công việc của mình nên cứ tiếp tục đạp xe mà đi. Bác đâu có phải là
cái đền có biển “hạ mã” ở trước để ai đi qua cũng phải xuống xe, xuống ngựa?
Lão
Tử có nói: “Trời đất sở dĩ có thể dài và lâu vì không sống cho mình nên mới
được trường sinh. Thánh nhân đặt thân mình ở sau mà lại lên trước, đặt thân
mình ở ngoài mà lại còn”. Bác Hồ sống quên mình, không nghĩ đến mình mà lại trở
thành sống mãi. Lời Lão Tử thật sâu sắc lắm thay!
8. Từ đôi dép đến chiếc ôtô
Đôi
dép của Bác ''ra đời'' vào năm 1947, được ''chế tạo'' từ một chiếc lốp ô tô
quân sự của thực dân Pháp bị bộ đội ta phục kích tại Việt Bắc.
Đôi
dép đo cắt không dày lắm, quai trước to bản, quai sau nhỏ rất vừa chân Bác.
Trên
đường công tác, Bác nói vui với anh em cán bộ đi cùng:
-
Đây là đôi hài vạn dặm trong truyện cổ tích ngày xưa… Đôi hài thần đất, đi đến
đâu mà chẳng được.
Chẳng
những khi ''hành quân'' mà cả mùa đông, Bác đi thêm đôi tất cho ấm chân, tiếp
khách trong nước, khách quốc tế vẫn thường thấy Bác đi đôi dép ấy.
Gặp
suối hoặc trời mưa trơn, bùn nước vào dép khó đi, Bác tụt dép xách tay. Đi thăm
bà con nông dân, sải chân trên các cánh đồng đang cấy, đang vụ gặt, Bác lại xắn
quần cao lội ruộng, tay xách hoặc nách kẹp đôi dép…
Mười
một năm rồi vẫn đôi dép ấy… Các đồng chí
cảnh vệ cũng đã đôi ba lần ''xin'' B¸c ®æi dÐp nhưng Bác bảo ''vẫn còn đi được''.
Cho
đến lần đi thăm Ấn Độ, khi Bác lên máy bay, ngồi trong buồng riêng thì anh em
lập mẹo dấu dép đi, để sẵn một đôi giầy mới…
Máy
bay hạ cánh xuống Niu Đê-li. Bác tìm dép. Anh em thưa:
-
Có lẽ đã cất xuống khoang hàng của máy bay rồi… Thưa Bác….
Bác
ôn tồn nói:
-
Bác biết các chú cất dép của Bác đi chứ gì. Nước ta còn chưa được độc lập hoàn
toàn. Nhân dân ta còn khó khăn. Bác đi dép cao su nhưng bên trong lại có đôi
tất mới thế là đủ lắm mà vẫn lịch sự…
Thế
là các ông "tham mưu con" phải trả lại dép để Bác đi vì dưới đất chủ
nhà đang nóng lòng chờ đợi…
Trong
suốt thời gian ở Ấn Độ, các chính khách, nhà báo, quay phim, chụp ảnh lại rất
quan tâm đến đôi dép của Bác. Họ cúi xuống sờ nắn quai dép, thi nhau bấm máy từ
nhiều góc độ, ghi ghi chép chép… làm anh em cảnh vệ lại phải một phen xem chừng
và bảo vệ "đôi hài thần kỳ" ấy.
Năm
1960, Bác đến thăm một đơn vị Hải quân nhân dân Việt Nam. Vẫn đôi dép "thâm niên
ấy". Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở, trại chăn nuôi của đơn vị. Cán bộ và
chiến sĩ rồng rắn kéo theo, ai cũng muốn chen chân, vượt lên để được gần Bác,
Bác vui cười nắm tay chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Bỗng Bác đứng lại:
-
Thôi, các cháu dẫm làm tụt quai dép của Bác rồi…
Nghe
Bác nói, cả đám dừng lại cúi xuống yên lặng nhìn đôi dép rồi lại ồn ào lên:
-
Thưa Bác, cháu, để cháu sửa…
-
Thưa Bác, cháu, cháu có "rút dép" đây…
Nhao
nhác, ầm ĩ như thế, nhưng đồng chí cảnh vệ chỉ đứng cười vì biết đôi dép của
Bác đã phải đóng đinh rồi; có "rút" cũng vô ích…
Bác
cười nói:
-
Cũng phải để Bác đến chỗ gốc cây kia, có chỗ dựa mà đứng đã chứ!
Bác
"lẹp xẹp" lết đôi dép đến gốc cây, một tay vịn vào cây, một chân co
lên tháo dép ra, "thách thức":
-
Đây! Cháu nào giỏi thì chữa hộ dép cho Bác…
Một
anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ lên nhưng ngớ ra, lúng túng. Anh bên
cạnh liếc thấy, "vượt vây" chạy biến…
Bác
phải giục:
-
Ơ kìa, ngắm mãi thế, nhanh lên cho Bác còn đi chứ. Anh chiến sĩ, lúc nãy chạy
đi đã trở lại với chiếc búa con, mấy cái đinh:
-
Tôi, để tôi sửa dép…
Mọi
người dãn ra. Phút chốc, chiếc dép đã được chữa xong.
Những
chiến sĩ không được may mắn chữa dép phàn nàn:
-
Tại dép của Bác cũ quá, Thưa Bác, Bác thay dép đi ạ…
Bác
nhìn các chiến sĩ nói:
-
Các cháu nói đúng… nhưng chỉ có đúng một phần… Đôi dép của Bác cũ nhưng nó chỉ
mới tụt quai. Cháu đã chữa lại chắc chắn cho Bác thế này thì còn ''thọ'' lắm!
Mua đôi dép khác chẳng đáng là bao, nhưng khi chưa cần thiết cũng chưa nên… Ta
phải tiết kiệm vì đất nước ta còn nghèo…
Đôi
dép cá nhân đã vậy, còn ''đôi dép'' ô tô của Bác cũng thế!
Chiếc
xe ''Pa -biết -đa'' sản xuất tại Liên Xô Bác vẫn đi, đã cũ, Văn phòng xin
''đổi'' xe khác, ''đời mới'' hơn, tốt hơn, nhưng Bác không chịu:
-
Xe của Bác hỏng rồi à?
Anh
em thưa rằng chưa hỏng, nhưng muốn thay xe để Bác đi nhanh hơn, êm hơn.
Bác
nói:
-
Ai thích nhanh, thích êm thì đổi…
Hôm
sau đến giờ đi làm, không biết là xe hỏng thật hay ''ai'' xui mà Bác đứng đợi
bên xe mà xe cứ ''ì'' ra. Bác cười bảo đồng chí lái xe:
-
Máy móc có trục trặc, chú cứ bình tĩnh sửa. Sửa xong Bác cháu ta đi cũng kịp…
Vài
phút sau, xe nổ máy..
Bác
lại cười nói với đồng chí lái xe, cảnh vệ:
-
Thế là xe vẫn còn tốt!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét